Bên cạnh việc là một nguồn tự nhiên của một số loại vitamin, sơ ri còn mang lại những lợi ích sức khỏe khác nhờ tác dụng chống oxy hóa, chống viêm, chống ung thư và chống lão hóa. Các lợi ích y học của sơ ri được thảo luận dưới đây:
Vitamin C cao trong Sơ ri giúp cải thiện khả năng miễn dịch của một người. Nó giúp ngăn ngừa nhiễm trùng và cũng cho phép một người phục hồi nhanh hơn sau bất kỳ bệnh tật nào. Vitamin C ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông, do đó ngăn ngừa đột quỵ, đau tim và các bệnh mạch máu ngoại vi. Nó tái tạo các mô da bị tổn thương và xây dựng collagen, giúp duy trì sự trẻ trung của làn da, ngăn ngừa nếp nhăn.
Axit ascorbic trong nước ép Sơ ri có sinh khả dụng cao so với bổ sung Vitamin C. Nước ép sơ ri làm giảm bài tiết axit ascorbic qua nước tiểu và tăng khả năng hấp thụ của nó. Bioflavonoid tự nhiên trong quả anh đào acerola có thể gây ra hiệu ứng này.
Tác dụng của quả sơ ri là điều trị bệnh còi, một tình trạng do thiếu vitamin C. 100 gam sơ ri chứa khoảng 1677,6 mg hàm lượng vitamin C ở dạng tự nhiên, rất dễ hấp thụ vào cơ thể. Dùng 100 gam sơ ri sơ ri mỗi ngày trong một tuần có tác dụng chữa bệnh còi. Tất cả các triệu chứng của bệnh còi được chữa khỏi hoàn toàn trong vòng 7 ngày với acerola.
Chỉ số đường của Sơ ri thấp làm cho nó trở thành loại trái cây lành mạnh cho bệnh nhân tiểu đường. Ngoài ra, quả sơ ri có chứa polyphenol, có tác dụng ức chế men alpha-glucosidase và giảm tác động của carbohydrate lên mức đường huyết. Nó ngăn chặn sự vận chuyển glucose trong ruột, điều hòa quá trình chuyển hóa carbohydrate và làm chậm quá trình giải phóng đường vào máu.
Nó giúp tăng cường sản xuất insulin trong tuyến tụy và giúp duy trì lượng glucose trong máu. Việc điều chỉnh sản xuất insulin và hấp thụ glucose là những phương tiện quan trọng để ngăn ngừa sự đột ngột và giảm lượng đường trong máu ở bệnh nhân tiểu đường có thể dẫn đến những hậu quả đe dọa tính mạng. Sử dụng Acerola thường xuyên cũng có thể giúp ngăn ngừa sự khởi phát của bệnh tiểu đường và điều chỉnh lượng đường trong máu ở những người dễ phát triển tình trạng này do sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ cao như tiền sử gia đình và béo phì.